Trị liệu theo mô hình ESDM
Trung tâm Sao Mai chú trọng phương pháp PHCN cho trẻ
Trị liệu giác quan giúp trẻ tự kỷ cân bằng cơ thể, điều chỉnh hành vi
Can thiệp nhóm cho trẻ tự kỷ

Một số vấn đề về thực hành mô hình can thiệp sớm DENVER cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ- Kinh nghiệm từ Trung tâm Sao Mai

                                                                                                                                                                                                     Nguyễn Thị Thu Ngân – Trung tâm Sao Mai

ĐẶT VẤN ĐỀ:

            Rối loạn phổ tự kỷ là thuậtngữ chỉ một nhóm các rối loạn phát triển lan tỏa xuất hiện sớm ở trẻ em, những rối loạn này biểu hiện ở các mức độ khác nhau từ nhẹ đến nặng, đặc trưng bởi sự suy giảm về tương tác xã hội, chất lượng giao tiếp, hành vi, sở thích hoặc hoạt động lặp lại và bị giới hạn. RLPTK ảnh hưởng mạnh đến quá trình phát triển của mỗi cá nhân trẻ, làm hạn chế khả năng học tập và thích nghi hòa nhập xã hội. Việc can thiệp tự kỷ khá đa dạng, tùy thuộc vào mức độ, lứa tuổi, đặc điểm mỗi cá nhân, điều kiện hoàn cảnh môi trường để lựa chọn ra phương pháp hay mô hình can thiệp phù hợp. Rất nhiều nghiên cứu về lý thuyết và thực tiễn đều đã chứng minh rằng can thiệp sớm có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giữ vai trò then chốt đối với sự phát triển của trẻ khuyết tật nói chung và trẻ RLPTK nói riêng. Trên thế giới hiện có nhiều phương pháp giáo dục đặc thù và mô hình can thiệp dành cho đối tượng trẻ đặc biệt này dựa trên các nghiên cứu công phu và quá trình thực nghiệm kỹ lưỡng, trong đó có mô hình can thiệp sớm Denver (ESDM)

            Năm 2015, trong chương trình hợp tác Quốc tế, được thụ hưởng nguồn kinh phí dự án từ Quỹ Dora- Thụy Sỹ, nhóm 6 giáo viên Sao Mai đầu tiên đã được đào tạo trực tiếp thành trị liệu viên ESDM từ các chuyên gia giàu kinh nghiệm của Best Star Clinic http://beststartclinic.com.au/, tuân thủ theo quy trình đào tạo của học viện MIND, UC Davis. Từ tháng 2.2016 đến nay, trung tâm Sao Mai đã tổ chức can thiệp chương trình ESDM, có sự tham gia tích cực của phụ huynh. Từ kinh nghiệm thực tế cho thấy đây là một mô hình can thiệp sớm mang lại hiệu quả cao đối với sự phát triển của trẻ RLPTK, bên cạnh đó còn làm rõ một số điểm hạn chế, bất cập của việc áp dụng ESDM nguyên gốc và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường can thiệp hiệu quả.

TỔ CHỨC MÔ HÌNH CAN THIỆP SỚM DENVER CHO TRẺ CÓ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ

1. Một số vấn đề lý luận về ESDM:

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ESDM

Nền tảng của ESDM được xây dựng dựa trên một số cách tiếp cận bổ sung khác nhau được tập hợp lại, bao gồm Mô hình Denver gốc do Sally J. Rogers, Ph.D (UC Viện MIND Davis) và các cộng sự tiến hành vào năm 1981; Rogers, Herbison, Lewis, Pantone, & Reis (1986); Rogers và Penningtons’s (1991) – mô hình Phát triển liên cá nhân ở tự kỷ; Dawson và các cộng sự (2004) – mô hình Tự kỷ là một rối loạn động lực xã hội; và Đào tạo về phản ứng then chốt (PRT) - một phương pháp giảng dạy tiếp cận dựa trên phân tích hành vi ứng dụng (ABA) làm nổi bật tính chủ động và khởi xướng của trẻ trong các tình huống tự nhiên (Schreibman & Pierce, 1993; Koegel & Koegel, 1988). Mô hình trải qua một lịch sử phát triển tương đối dài, tiếp tục thay đổi và định hình khi những dữ liệu và lý thuyết mới về hội chứng tự kỷ sớm xuất hiện. ESDM hợp nhất các phát hiện trong nghiên cứu về giáo dục, các mối quan hệ cũng như sự phát triển nhằm tạo ra một mô hình can thiệp dựa trên giao tiếp, các mối quan hệ phù hợp với các hoạt động chăm sóc và vui chơi của trẻ trong gia đình. Mô hình ESDM thúc đẩy sự tiến bộ của trẻ để đạt được các mốc phát triển điển hình. Tính hiệu quả của mô hình này được thể hiện trong các nghiên cứu thực nghiệm của Dawson và cộng sự trong năm 2010 và vẫn đang tiếp tục được kiểm chứng thông qua hàng loạt các nghiên cứu bổ sung.

1.2. Nội dung và cách tiếp cận của ESDM 

ESDM được cung cấp cho trẻ RLPTK bắt đầu ở tuổi 1-3 và tiếp tục trị liệu cho đến 4-5 tuổi. Giáo trình ESDM có các mục tiêu trị liệu và sự sắp xếp các kỹ năng can thiệp, được thể hiện qua bảng kiểm chương trình giảng dạy và mô tả công cụ. Bảng kiểm được tổ chức thành 4 cấp độ (CĐ) kỹ năng, tương ứng với các giai đoạn phát triển lứa tuổi: CĐ 1 (12-18 tháng), CĐ 2 (18-24 tháng), CĐ 3 (24-36 tháng), CĐ 4 (36-48 tháng). Bảng kiểm được phát triển đặc biệt cho trẻ RLPTK, gồm các lĩnh vực chủ chốt: Giao tiếp tiếp nhận, giao tiếp diễn đạt, kỹ năng xã hội, kỹ năng chơi, kỹ năng nhận thức, kỹ năng vận động thô và tinh, tự lập và hành vi thích ứng. Trong mỗi kỹ năng có nhiều mục. Nếu sử dụng một tiêu chuẩn phát triển điển hình ở trẻ em thường để so sánh thì sẽ thấy các mục trong một kỹ năng của bảng kiểm có thể được mở rộng khác nhau. Thứ tự các mục ở một CĐ phản ảnh đồng thời cả nghiên cứu về thang phát triển của trẻ điển hình, cũng như kinh nghiệm lâm sàng của các chuyên gia đa lĩnh vực: tâm lý học phát triển và lâm sàng, ABA, giáo dục đặc biệt thời thơ ấu, trị liệu ngôn ngữ - lời nói và hoạt động trị liệu, đã làm việc với hàng trăm trẻ RLPTK trong vòng 25 năm qua

Bảng 1: Số lượng mục, kỹ năng, cấp độ trong Bảng kiểm chương trình giảng dạy ESDM

Kỹ năng

CĐ 1

CĐ 2

CĐ 3

CĐ 4

Giao tiếp tiếp nhận

15 mục

10 mục

14 mục

19 mục

Giao tiếp diễn đạt

14 mục

12 mục

18 mục

30 mục

Kỹ năng xã hội

10 mục

20 mục

15 mục

9 mục

Bắt chước

4 mục

9 mục

 

 

Kỹ năng chơi

8 mục

8 mục

6 mục

9 mục

Kỹ năng nhận thức

4 mục

8 mục

10 mục

12 mục

Vận động tinh

12 mục

14 mục

11 mục

19 mục

Vận động thô

8 mục

7 mục

8 mục

9 mục

Tự lập

18 mục

26 mục

19 mục

18 mục

Hành vi thích ứng

5 mục

8 mục

 

 

Cách tiếp cận của ESDM có cấu trúc và thiết thực. Từ các thông tin có được qua bảng kiểm, phụ huynh và đội ngũ can thiệp sẽ đưa ra 15-25 mục tiêu cho 1 chu kỳ học tập ngắn hạn trong khoảng thời gian 12 tuần, có ưu tiên các kỹ năng chủ chốt ở từng thời điểm phát triển của trẻ. Các mục tiêu được chia thành nhiều bước nhỏ hướng tới mục tiêu chính, là mục tiêu đạt đến sự thành thạo hoàn toàn và có tính khái quát với môi trường, tình huống và các đối tác giao tiếp. Các bước nhỏ giúp định hướng quá trình giảng dạy hàng ngày, theo dõi chặt chẽ sự tiến bộ của trẻ và được ghi chép lại thông qua bảng dữ liệu thường nhật trong buổi trị liệu (thu thập 15 phút/lần) và bảng dữ liệu tổng hợp cuối buổi trị liệu. Dữ liệu được tổng hợp cho phép dễ dàng kiểm tra tiến độ giảng dạy, nhất là khi sự tiến bộ của trẻ chưa phải là tối ưu và kế hoạch học tập cần có sự điều chỉnh.

ESDM sử dụng hệ thống dạy học trực quan và thiên về hành vi, chú trọng đến dữ liệu để đưa ra quyết định, xử lý chi tiết tất cả những miền phát triển trong các phần thực hành giảng dạy. Phương pháp can thiệp ESDM được xây dựng trên mối quan hệ bền vững ngay từ những bước đầu tiên và trong suốt quá trình trị liệu. Người lớn trở thành một bạn chơi thú vị trong sân chơi của trẻ và trẻ thực sự cảm nhận được điều này. Khi trẻ vui vẻ, tập trung chú ý và sẵn sàng tham gia vào các thói quen hoạt động, người lớn khéo léo phát triển mục tiêu giảng dạy. Việc trị liệu giống như một quá trình tương tác tự nhiên. Các kỹ thuật giảng dạy khoa học đã được kiểm chứng ABA (Phân tích hành vi ứng dụng) được nhà trị liệu sử dụng trong suốt quá trình can thiệp. Chất lượng giảng dạy của mỗi trị liệu viên được đo lường bằng hệ thống đánh giá tính chính xác, thang chấm điểm thấp nhất là 1 – cao nhất là 5 cho tất cả các hoạt động diễn ra trong giờ trị liệu.

Bảng 2: Bảng mã hóa đo lường tính chính xác trong thực hành giảng dạy

TT

Nội dung đánh giá tính chính xác

Điểm hoạt động

HĐ1

HĐ2

HĐ3

HĐ4

HĐ5

HĐ…

1

Quản lý sự tập trung chú ý của trẻ

 

 

 

 

 

 

2

Dạy học theo định dạng ABC

 

 

 

 

 

 

3

Các kỹ thuật chỉ dẫn

 

 

 

 

 

 

4

Điều tiết trạng thái cảm xúc của trẻ

 

 

 

 

 

 

5

Quản lý hành vi không mong muốn

 

 

 

 

 

 

6

Chất lượng tương tác 2 chiều

 

 

 

 

 

 

7

Tối ưu hóa các kỹ thuật thúc đẩy

 

 

 

 

 

 

8

Người lớn thể hiện tác động tích cực

 

 

 

 

 

 

9

Sự phản hồi nhạy cảm của người lớn với các tín hiệu giao tiếp ở trẻ

 

 

 

 

 

 

10

Đa dạng cơ hội giao tiếp với các chức năng giao tiếp khác nhau

 

 

 

 

 

 

11

Ngôn ngữ của người lớn phù hợp với cấp độ ngôn ngữ của trẻ

 

 

 

 

 

 

12

Xây dựng hoạt động chung có cấu trúc

 

 

 

 

 

 

13

Chuyển tiếp giữa các hoạt động

 

 

 

 

 

 

Sự tham gia của phụ huynh và gia đình trẻ được coi là yếu tố quan trọng trong sự can thiệp của ESDM. Trẻ tự kỷ cần được trải nghiệm bằng hoặc nhiều hơn cơ hội học tập so với trẻ em phát triển bình thường. Điều này chỉ có thể xảy ra khi cha mẹ và những người chăm sóc khác biết cách lôi kéo sự tham gia của trẻ trong các tương tác ở môi trường tại gia đình và những tình huống quen thuộc hàng ngày. Một phần trong can thiệp ESDM là đào tạo phụ huynh sử dụng kỹ thuật tương tác (có cẩm nang hướng dẫn) để phát triển mục tiêu. Phụ huynh phối hợp với đội ngũ can thiệp để thiết lập các mục tiêu cho trẻ, học cách lồng ghép các kỹ thuật trong các hoạt động chơi và chăm sóc trẻ để dạy trẻ. Phạm vi can thiệp của cha mẹ cũng như các thành viên khác thay đổi tùy thuộc từng gia đình nhưng thời lượng kỳ vọng tối thiểu là 1-2 tiếng/ngày, đạt 20-25 giờ/tuần theo cả 2 hình thức trị liệu tập trung và trị liệu dàn trải trong cuộc sống thường nhật.

2. Thực tiễn áp dụng ESDM tại Trung tâm Sao Mai:

2.1. Tổ chức can thiệp theo mô hình can thiệp sớm Denver:

Tháng 2.2016, Trung tâm Sao Mai hoàn thiện trang thiết bị, học liệu 6 phòng trị liệu ESDM. Phòng khám của trung tâm chẩn đoán và tư vấn gia đình các trẻ RLPTK, trẻ có các dấu hiệu tự kỷ được chẩn đoán: tiếp tục theo dõi/nguy cơ tự kỷ ở độ tuổi can thiệp sớm tham gia can thiệp theo mô hình này. Trong 13 tháng, nhóm đã và đang thực hành can thiệp tổng số 29 trẻ. Các trị liệu viên lập hồ sơ ESDM cho riêng từng trẻ để theo dõi quá trình phát triển chung cũng như từng kỹ năng riêng biệt. Các trẻ được nhóm giáo viên cùng phụ huynh đánh giá đầu vào và đánh giá từng chu kỳ sau 3 tháng học bằng công cụ bảng kiểm. Mỗi ngày trẻ được can thiệp tập trung tối thiểu 1 tiếng tại phòng trị liệu và trị liệu rải rác ở lớp học, sân chơi, gia đình trẻ. Các giáo viên thường xuyên làm việc với phụ huynh để hướng dẫn lồng ghép các kỹ thuật thu hút sự tham gia của trẻ vào các hoạt động, trò chơi ở nhà, hướng tới mục tiêu can thiệp đã đặt ra cho trẻ. Các buổi làm việc chung tạo điều kiện cho phụ huynh chia sẻ thuận lợi và khó khăn trong quá trình nuôi dạy trẻ, khuyến khích cha mẹ tham gia thảo luận và lựa chọn các mục tiêu thích hợp với trẻ trong từng chu kỳ học tập, giúp cha mẹ hiểu cách khái quát hóa một mục tiêu cho trẻ thông qua nhiều tình huống hoàn cảnh, môi trường với nhiều người khác nhau để cùng nhóm giáo viên tận dụng cơ hội giúp trẻ phát triển.

Kết quả đã có 11/29 trẻ ra học hòa nhập tại các trường mầm non, mẫu giáo công lập và tư thục. Trong 11 trẻ này có 1 trẻ theo học 4 chu kỳ trị liệu (12 tháng), 2 trẻ theo học 3 chu kỳ trị liệu (9 tháng), 7 trẻ theo học 2 chu kỳ trị liệu (6 tháng), có 1 trẻ tiến bộ ngay sau 1 chu kỳ trị liệu (3 tháng). Thông qua công cụ Bảng kiểm đánh giá đầu vào và đầu ra, phỏng vấn phụ huynh của trẻ, nhận phản hồi từ cô giáo hiện tại của trẻ, chúng tôi ghi nhận được sự phát triển các kỹ năng của 11 trẻ theo học chương trình ESDM có nhiều tiến bộ rõ rệt, tương đối đồng đều và ổn định về độ tập trung chú ý, khả năng tương tác, giao tiếp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, kỹ năng xã hội, kỹ năng nhận thức, kỹ năng chơi. Các trẻ giao tiếp tốt với người thân trong gia đình, hòa mình trong môi trường lớp học, chơi được với các bạn, theo kịp chương trình học ở lớp mà cần rất ít sự hỗ trợ từ phía các cô giáo, hiếm khi có hành vi không phù hợp tại nơi công cộng.

Hiện nay 18 trẻ vẫn đang tiếp tục được trị liệu theo chương trình ESDM, 4/18 trẻ đã được can thiệp 4 chu kỳ, 8/18 trẻ đã được can thiệp 2 chu kỳ, 6/18 trẻ đã được can thiệp 1 chu kỳ. Hầu hết các trẻ khi mới bắt đầu học, mốc phát triển chỉ đạt được vài item ở mỗi kỹ năng và đều đang ở cấp độ 1. Sau một chu kỳ 3 tháng can thiệp đầu tiên với nhà trị liệu chính, phối hợp với giáo viên lớp, phụ huynh của trẻ và sự tham gia của các giáo viên trị liệu khác nếu thực sự cần thiết như: trị liệu ngôn ngữ, trị liệu hoạt động, trị liệu giác quan, trị liệu mỹ thuật, phục hồi chức năng. Kết quả sau khi tiến hành đánh giá bằng công cụ bảng kiểm chương trình, qua phân tích kết quả và xử lý dữ liệu ghi chép trong hồ sơ, qua sự thể hiện của trẻ trong sinh hoạt, vui chơi và học tập hàng ngày, qua thu thập ý kiến bằng bảng hỏi dành cho phụ huynh, 100% các trẻ đều đạt được sự tiến bộ nhất định, tuy vẫn có sự khác nhau về tốc độ phát triển nhưng chênh lệch không nhiều. Một số kỹ năng nhất định của các trẻ không chỉ vượt qua các mục được lựa chọn là mục tiêu học tập ưu tiên trong giai đoạn trị liệu ban đầu, mà đồng thời còn đạt được ở các mục khác nữa của từng kỹ năng trong cấp độ hiện tại và tiến sang cấp độ kế tiếp.

2.2 Kết quả can thiệp trên 1 trường hợp:

Được sự đồng ý của phụ huynh trẻ, trong bài viết này chúng tôi ghi lại kết quả học tập của 1 trẻ hiện vẫn đang tiếp tục được can thiệp theo chương trình ESDM.

Họ tên trẻ: Nguyễn Việt H

Ngày sinh : 31/10/2013

Bố : Nguyễn Việt Dũng       SN : 1984      Nghề nghiệp: Kỹ sư công nghệ thông tin

Mẹ : Lê Thị Nhung              SN: 1988       Nghề nghiệp: Nhân viên văn phòng         

Thời điểm bắt đầu tham gia can thiệp theo chương trình ESDM: 28,5 tháng

Trị liệu viên : Nguyễn Thị Thanh Hương

Quan sát và đánh giá ban đầu :

Ngày 1/3/2016, bác sỹ tâm thần nhi và cán bộ tâm lý của phòng khám đã ghi lại kết quả đánh giá về trẻ: Trẻ không quan tâm chú ý xung quanh, tự lấy đồ chơi, chơi một mình, thích xếp đồ chơi thành hàng hoặc chồng cao, chưa biết chơi giả vờ. Trẻ thích làm theo ý mình, ít hợp tác, tập trung chú ý kém, bắt chước kém, gọi không phản ứng, giao tiếp mắt ngắn. Khả năng nhận biết của trẻ rất kém. Trẻ hầu như không có khả năng tự lập ở những việc đơn giản nhất của lứa tuổi như cầm cốc uống nước, cầm thìa xúc ăn. Trẻ chưa có ngôn ngữ diễn đạt, chỉ ê a vô nghĩa. Chỉ số phát triển kỹ năng của trẻ theo công cụ Denver II: Vận động tinh ~ 18 tháng, vận động thô ~ 18 tháng, ngôn ngữ ~ 6 đến 9 tháng (ngôn ngữ nói) ~ 9 đến 11 tháng (ngôn ngữ hiểu), cá nhân xã hội ~ 15 tháng. Phòng khám chẩn đoán: Nguy cơ tự kỷ kèm suy yếu về trí tuệ. 

Trẻ nhập học tại Trung tâm vào ngày 8/3/2016, xếp vào lớp 10 trẻ có cùng loại tật, độ tuổi (năm sinh 2012-2013). Kết quả ghi chép của 2 viên lớp khi quan sát trẻ trong hai ngày 9 và 10/3/2016: Trẻ ngoan, không khóc, thường thơ thẩn đi khắp lớp, tự lấy đồ chơi và chơi theo cách riêng, không quan tâm tới xung quanh. Trẻ thích sở hữu tất cả đồ vật trong tầm tay của trẻ kể cả đồ thích hay không, nhất định không cho người khác sờ vào. Trẻ có hành vi cắn bạn, cắn cô, la hét khi bị lấy đồ.

Quan sát tại phòng ESDM ngày 11/3/2016 nhận thấy: Trẻ không biết lạ quen (giáo viên đón đưa đi không khóc). Gọi tên trẻ không phản ứng, tuy nhiên trẻ có phản ứng với âm thanh đồ vật nhưng ít và phải ở cường độ lớn. Trẻ hiếm khi giao tiếp mắt với cô, thể hiện nhu cầu bằng cách kéo tay cô, đẩy tay để từ chối. Khả năng bắt chước rất kém, thường xuyên phát ra âm ê a vô nghĩa. Trẻ chạy nhảy khắp phòng, nhanh chán đồ chơi, chơi theo ý mình, không cho người khác tham gia vào hoạt động chơi.

Ngày 15.3.2016, nhóm gồm giáo viên trị liệu ESDM, giáo viên lớp và phụ huynh sử dụng công cụ Bảng kiểm đánh giá trẻ. Kết luận chung: Trẻ rất kém ở các kĩ năng nhận thức, bắt chước, kĩ năng xã hội, ngôn ngữ.

Bảng 3: Kết quả đánh giá ban đầu và đánh giá ở các chu kỳ kế tiếp

Thời gian

Kỹ năng

Lần 1

15.3.2016

Lần 2

15.6.2016

Lần 3

15.9.2016

Lần 4

15.12.2016

 Lần 5

15.3.2017

Giao tiếp tiếp nhận

CĐ1-1/15

CĐ1-6/15

CĐ1-14/15

CĐ2-1/10

CĐ2-5/10

Giao tiếp diễn đạt

CĐ1-3/14

CĐ1-5/14

CĐ1-9/14

CĐ1-12/14

CĐ2-4/12

Kỹ năng xã hội

CĐ1-2/10

CĐ1-5/10

CĐ1-9/10

CĐ2-3/20

CĐ2-9/20

Bắt chước

CĐ1-0/4

CĐ1-2/4

CĐ1-3/4

CĐ2-4/9

CĐ2-7/9

Kỹ năng chơi

CĐ1-5/8

CĐ1-7/8

CĐ2-1/8

CĐ2-4/8

CĐ2-6/8

Kỹ năng nhận thức

CĐ1-0/4

CĐ1-2/4

CĐ2-1/8

CĐ2-3/8

CĐ2-6/8

Vận động tinh

CĐ1-9/12

CĐ1-11/12

CĐ2-3/14

CĐ2-6/14

CĐ2-10/14

Vận động thô

CĐ1-6/8

CĐ2-2/7

CĐ2-4/7

CĐ2-5/7

CĐ3-3/6

Tự lập

CĐ1-14/18

CĐ1-16/18

CĐ2-1/26

CĐ2-9/26

CĐ2-15/26

Hành vi thích ứng

CĐ1-3/5

CĐ1-5/5

CĐ2-2/8

CĐ2-4/8

CĐ2-6/8

(Giải thích cách ghi: Số mục kỹ năng trẻ đạt/tổng số mục có trong kỹ năng đó)

Đánh giá thời điểm hiện tại: (15.3.2017 – lần đánh giá thứ 5)

Giao tiếp tiếp nhận: Trẻ hiểu và làm theo được các chỉ dẫn trong sinh hoạt hàng ngày. Trẻ nhận biết được các bộ phận cơ thể mình và người khác, chỉ lấy đúng được nhiều đồ vật, đồ chơi. Khi xem (sách) tranh với người lớn, khi được hỏi trẻ chỉ đúng 1 số tranh chủ đề con vật, hoa quả, đồ dùng, phương tiện giao thông…

Giao tiếp diễn đạt: Trẻ đã tương tác tốt với nhiều người thân quen trong môi trường ở nhà, lớp học, khu vui chơi công cộng. Trẻ chủ động sử dụng từ đơn (danh từ và động từ) và một số cụm từ đôi thể hiện một số chức năng giao tiếp cơ bản như: nhu cầu mong muốn đồ vật/đồ chơi/hoạt động, yêu cầu giúp đỡ, đáp lại lời chào và tạm biệt.

Kỹ năng xã hội: Trẻ biết khởi xướng và duy trì giao tiếp mắt, khả năng tương tác, bắt chước ngôn ngữ và hành động cơ thể tiến triển rõ rệt đặc biệt trong các trò chơi giác quan xã hội. Trẻ đã ngồi học, chơi trong nhóm nhỏ với các bạn cùng lứa, tham gia chơi những trò chơi quen thuộc khi có sự chỉ dẫn của người lớn. Biết chấp nhận chia sẻ đồ chơi với bạn. Tuy vậy trẻ còn nhiều hạn chế trong các hoạt động chơi có tính lần lượt trong nhóm hoặc các trò chơi mới có sự tham gia của nhóm đông

Bắt chước: Khả năng chú ý của trẻ tốt hơn, trẻ rất tích cực bắt chước ngôn ngữ, âm thanh, các hành động vận động thô thông qua bài hát, trò chơi âm nhạc, tập thể dục theo nhạc. Trẻ gặp hạn chế trong việc bắt chước mẫu song song khi học các động tác mới hay một chuỗi các chuyển động liên tiếp

Nhận thức: Trẻ đã ghép/phân loại được đồ vật theo hình dạng, kích cỡ, biết lựa chọn và xếp những đồ vật tương tự vào nhóm

Kỹ năng chơi: Trẻ biết chơi một số đồ chơi đúng cách, biết kết hợp 2-3 hành động chơi theo chức năng có liên quan đến chủ đề chơi, biết tự chơi giả vờ và chơi giả vờ với đối tượng khác như giáo viên, mẹ, bạn chơi, búp bê ở các trò chơi đơn giản. Tuy vậy trong khi chơi còn chưa linh hoạt chuyển đổi cách chơi, đồ chơi hay hành động chơi.

Vận động tinh: Phối hợp tay mắt của trẻ khá tốt, sử dụng các ngón tay tương đối linh hoạt, trẻ biết ghép hình, nhặt/thả/cài hạt, xếp chồng 8-10 khối gỗ, thao tác cơ bản với đất nặn, xé và dán giấy, mở và kéo khóa, vặn mở nắp hộp có ren.

Vận động thô: Trẻ thực hiện các hành động vận động thô tốt (đi, đứng, chạy, nhày, bò, trèo, đi cầu thang), giữ thăng bằng tốt tròng hoạt động đá bóng bằng chân thuận, chơi và sử dụng các thiết bị ở sân chơi (đu quay, nhà bóng, cầu trượt, xích đu…)

Tự lập: Trẻ biết tự xúc ăn và ngồi tại bàn ăn trong suốt thời gian ăn. Biết sử dụng khăn ăn đúng tình huống. Trẻ đã biết tự mặc/cởi quần, cởi được áo khoác ngoài nhưng chưa biết cởi áo bên trong. Trẻ hợp tác tốt với người lớn trong việc vệ sinh thân thể

Hành vi thích ứng tiến bộ rõ rệt: Trẻ tham gia vui vẻ vào việc học, vui chơi, sinh hoạt hàng ngày với người lớn hoặc nhóm nhỏ 3-5 bạn cùng lứa. Duy trì được thời gian chơi lâu hơn, chất lượng và tần suất giao tiếp phù hợp có chủ đích tăng. Hầu như trẻ không còn đi thơ thẩn 1 mình, nói âm vô nghĩa nữa.

3. Kết luận:

Qua gần 2 năm được đào tạo và áp dụng ESDM cho 29 trẻ, dựa trên kết quả thu được từ sự tiến bộ của trẻ, sự hài lòng của phụ huynh, sự đánh giá cao về chuyên môn của chuyên gia và nhà tài trợ dự án, chúng tôi nhận thấy đây là một Mô hình can thiệp sớm tốt dành cho trẻ RLPTK.Lý do Trung tâm Sao Mai lựa chọn ESDM, cử giáo viên học tập, đưa vào thực hành và trở thành một hình thức trị liệu cá nhân tiến hành song song với các hình thức trị liệu cá nhân đã có trước đây là vì: (1) Đây là mô hình có căn cứ về bằng chứng kinh nghiệm vững chắc (2) Đây là mô hình can thiệp tập trung vào tất cả miền của sự phát triển, có giáo trình cũng như phương pháp giảng dạy giàu tương tác được thiết kế riêng cho trẻ tự kỷ ở độ tuổi mầm non, mẫu giáo (3) Mô hình có thể chuyển hóa trong các dạng môi trường tự nhiên (4) Mô hình đem lại nhiều niềm vui từ giao tiếp tích cực thông qua các hoạt động vui chơi tạo ra sự gắn kết giữa phụ huynh, trẻ và nhà trị liệu (5) Mô hình sử dụng phương pháp giảng dạy khoa học đã được kiểm chứng

Chúng tôi hiểu rằng không có phương pháp nào dù tốt nhất phù hợp cho tất cả các trẻ RLPTK, gia đình trẻ và giáo viên trị liệu. Một can thiệp tốt cần phù hợp từ cách thức tương tác với trẻ ở mỗi gia đình, cách giao tiếp thành công của nhà trị liệu với mọi người trong nhóm, và phần nhiều phụ thuộc vào năng lực của chính trẻ. Từ việc thực hành một mô hình can thiệp nguyên gốc của Mỹ vào thực tế trẻ và gia đình trẻ Việt Nam, tuy số lượng chưa nhiều, thời gian còn ngắn, chúng tôi cũng mạnh dạn đi đến sự tổng kết ban đầu rất đáng lưu tâm về những hạn chế, bất cập đã và đang gặp phải, hy vọng có thể giúp ích ít nhiều cho các chuyên gia, các nhà trị liệu, giáo viên và sinh viên đang làm việc trong lĩnh vực này.

Phụ huynh và gia đình trẻ: Do công việc và cuộc sống, đa số phụ huynh không có nhiều thời gian dành cho việc tương tác, dạy dỗ con trong môi trường ở nhà. Các hoạt động sinh hoạt hằng ngày: dọn dẹp, ăn, uống, tắm…. ít được sử dụng làm yếu tố tiền đề cho việc học tập của trẻ, vì thế cơ hôi học tập đa môi trường, rải rác trong các khoảng thời gian bất kỳ nhiều lúc bị bỏ qua, dẫn đến khả năng khái quát hóa một mục tiêu học tập của trẻ bị hạn chế và sự phát triển không nhất quán của các kỹ năng ở trẻ.

Bên cạnh đó, đa phần phụ huynh tham gia nhiệt tình trong kỳ khám chẩn đoán, đánh giá và chu kỳ học đầu tiên của trẻ. Ở các chu kỳ tiếp theo sự gắn kết với giáo viên, nhà trị liệu có xu hướng giảm dần. Nhiều phụ huynh tin tưởng nhà trị liệu nên có tâm lý phó mặc việc can thiệp trẻ cho giáo viên

Khi thấy con có xu hướng bật lên ở một vài kỹ năng nào đó, ví dụ: trẻ bắt đầu phát âm, nói từ đơn (khi vào học chưa biết nói), có giao tiếp mắt ngắn, đạt độ tập trung chú ý tốt hơn …, một số không ít phụ huynh đã đề nghị đưa con ra học hòa nhập, không duy trì can thiệp lâu dài để hướng tới sự phát triển các kỹ năng đồng đều và ổn định.

Từ phía trẻ: Danh sách trẻ đăng ký theo học chương trình ESDM ở độ tuổi và dạng tật phù hợp trong thời gian đầu không dư, trong đó 82,7% trẻ được được chẩn đoán RLPTK/nguy cơ tự kỷ/nghi ngờ theo dõi tự kỷ kèm theo các suy yếu khác như trí tuê, ngôn ngữ ở mức độ trung bình đến nặng, tuổi khôn quá thấp, 68,9% trẻ cận giới hạn tuổi (36-48 tháng) khi bắt đầu can thiệp, 37,9% trẻ từng can thiệp bằng các phương pháp khác ở nơi khác không có sự tiến bộ, vì thế chúng tôi cũng gặp khó khăn trong việc chọn đúng đối tượng trẻ để áp dụng mô hình này theo chuẩn lúc ban đầu. Nửa năm trở lại đây danh sách trẻ đăng ký tăng vọt, số lượng nhà trị liệu có hạn nên không đáp ứng kịp.

Nhà trị liệu: Thời gian hàng ngày dành cho 1 trẻ từ 1.5-2h, bao gồm can thiệp tập trung, xử lý dữ liệu và hướng dẫn phụ huynh, nên mỗi nhà trị liệu chỉ có thể làm việc tối đa 3-4 trẻ/ngày. Nhà trị liệu hiện đang hướng dẫn phụ huynh kỹ tại phòng trị liệu, chưa dành được khoảng thời gian nào để theo sát và hướng dẫn phụ huynh làm việc với con họ tại nhà, vì thế cũng dẫn đến sự hạn chế trong kết quả học tập của trẻ.

Nhóm liên ngành khi tham gia can thiệp cho trẻ, còn ít nhân lực ở các lĩnh vực: phân tích hành vi, trị liệu tâm lý, bác sỹ chuyên khoa thần kinh….,nên nhà trị liệu chính đôi khi phải đảm nhận cùng một lúc nhiều vai trò hoặc các nhân lực nói trên phải làm việc với cùng một lúc nhiều trẻ, vì thế hiệu quả phần nào cũng bị ảnh hưởng

Bảng kiểm chương trình giảng dạy ESDM: Khi thực hành giảng dạy dựa vào các mục trong bảng kiểm, chúng tôi nhận thấy một số mục thuộc kỹ năng tự lập không thực sự phù hợp với trẻ Việt Nam, có thể kê ra một số ví dụ như sau:

Mục - CĐ

Nội dung mục

Nhận xét

2 – CĐ1

Ăn bữa chính một cách độc lập (Mô tả: Người lớn dọn đồ ăn ra nhưng không trợ giúp gì)

Rất khó đối với trẻ 12-18 tháng tuổi

4 – CĐ1

Sử dụng dĩa

Không phải là dụng cụ ăn phù hợp với  người Việt

13 – CĐ1

Lau khô người bằng khăn tắm (Mô tả: sử dụng khăn lau khô hầu hết cơ thể - có thể gợi ý)

Rất khó đối với trẻ 12-18 tháng tuổi

6 – CĐ2

Ăn uống và cư xử một cách phù hợp ở cửa hàng ăn (Mô tả: Trẻ tham gia tất cả các bước: chờ đợi, yêu cầu món, mang đến, ngồi, ăn, dọn đi và rời khỏi mà không cần nhắc nhở. Trẻ ngồi cho đến tận khi kết thúc. Trẻ vui vẻ đi cùng người lớn ra cửa, không cần giữ tay)

Theo báo cáo của phụ huynh: Mục tiêu này không thể thực hiện được với trẻ 18-24 tháng

7 – CĐ4

Tự mặc quần áo một cách nhanh chóng: Cài khuy, kéo khóa  

Tương đối khó với trẻ 36-48 tháng tuổi

4. Giải pháp:

(1) Mở rộng đào tạo đội ngũ giáo viên có hiểu biết và kỹ năng làm việc theo ESDM bằng hình thức tập huấn, chia sẻ lại để giảm thiểu kinh phí tối đa (thực tế Sao Mai đã chi phí khoảng 60 triệu/1 giáo viên theo học trở thành trị liệu viên ESDM)

(2) Phụ huynh cần cam kết cho con theo học tối thiểu 4 chu kỳ để có sự tiến triển đồng đều các kỹ năng, trừ các trường hợp phát triển đặc biệt có thể ra học hòa nhập sớm hơn theo sự đánh giá của nhóm can thiệp

(3) Hướng dẫn phụ huynh quay video ngắn 10-15 phút các hoạt động cùng trẻ tại nhà để nhà trị liệu kịp thời tư vấn về kỹ thuật, cách phát triển mục tiêu…

(4) Các chuyên gia phối hợp nghiên cứu để chỉnh sửa lại một số nội dung trong giáo trình ESDM cho phù hợp với phong tục tập quán, văn hóa và sự phát triển của trẻ Việt Nam

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Sally J.Rogers and Geraldine Dawson (2010). Early Start Denver Model for Young Children with Autism.  The Guilford Press New York, Page 14-34
  2. American Psychiatric Association (2012), Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, fitth edition – DSM V, http://dsm.psychiatryonline.org
  3. Trung tâm Sao Mai -Tài liệu dịch từ nguyên bản gốc (2015) Mô hình can thiệp sớm Denver dành cho trẻ nhỏ rối loạn phổ tự kỷ, 282-331
  4. Nguồn tài liệu từ Website  http://www.ucdmc.ucdavis.edu/mindinstitute/research/esdm/
  5. Nguồn tài liệu từ Website  http://www.autismspeaks.org

  

 

Abstract

Mô hình can thiệp sớm Denver (ESDM) là một phương pháp tiên tiến và được áp dụng rộng rãi trên thế giới trong việc điều trị trẻ tự kỷ. Tuy nhiên, ở Việt Nam, đây vẫn còn là vấn đề khá mới mẻ và chưa được thực hành phổ biến trên phạm vi cả nước. Mục đích: Bằng kinh nghiệm áp dụng và triển khai tại Trung tâm Sao Mai, bài viết làm rõ tính thực tiễn của mô hình can thiệp sớm Denver đối với trẻ RLPTK,. Phương pháp: Mô tả trường hợp, phỏng vấn phụ huynh, sử dụng bảng kiểm của giáo trình ESDM để đánh giá kết quả trước và sau khi can thiệp trẻ. Kết quả: 29 trẻ được can thiệp ESDM đều có sự tiến bộ rõ rệt và ổn định về độ tập trung chú ý, khả năng tương tác xã hội, giao tiếp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, hành vi thích ứng tăng đáng kể. Tuy nhiên, khi áp dụng ESDM  thấy một số điểm bất cập từ phía trẻ RLPTK và gia đình trẻ, nhà trị liệu và tính chưa phù hợp về nội dung của một số item (mục) thuộc kỹ năng tự lập trong bảng kiểm.


Tin khác

Video
Cách nhận biết trẻ tự kỷ
phim tài liệu nhận thức về trẻ tự kỷ
Vì sao trẻ bị tự kỷ?
Kỷ niệm 20 năm thành lập trung tâm Sao Mai
Bản đồ